Đặc tính thực vật học của hoa hồng
Rễ: hồng thuộc loại rễ chùm, chiều ngang tương đối rộng, khi bộ rễ lớn phát sinh nhiều rễ phụ. Thân hồng thuộc loại nhóm cây thân gỗ, cây bụi thấp có nhiều cành và gai cong.
Lá: lá hoa hồng là lá kép lông chim, mọc cách, ở cuống lá có lá kèm nhẵn, mỗi lá kép có 3-5 hay 7-9 lá chét, xung quanh lá chét có nhiều răng cưa nhỏ. Tuỳ giống mà lá có màu sắc xanh đậm hay xanh nhạt, răng cưa nông hay sâu, hay có hình dạng lá khác.
Hoa: có nhiều màu sắc và kích thước khác nhau. Cụm hoa chủ yếu có 1 hoa hoặc tập hợp hoa trên cuống dài, cứng, có gai. Hoa hồng thuộc loại hoa lưỡng tính, nhị đực và nhị cái trên cùng 1 hoa, các nhị đực dính vào nhau bao xung quanh vòi nhụy. Khi phấn chín rơi trên đầu nhụy nên có thể tự thụ phấn, đài hoa có màu xanh.
Quả: quả hình trái xoan có các cánh đài còn lại.
Hạt: hạt hồng nhỏ có lông, khả năng nảy mầm của hạt rất kém do có lớp vỏ dày Yêu cầu ngoại cảnh khi trồng hoa hồng
Nhiệt độ
Nhiệt độ là một trong những nhân tố quan trọng cần quan tâm khi trồng hoa hồng, cây hoa hồng ưa khí hậu ôn hoà.
Nhiệt độ thích hợp cho hồng sinh trưởng và phát triển tốt là từ 18-25º C.
Nhiệt độ trên 35 ºC và dưới 18º C đều ảnh hưởng tới cây.
Nhiệt độ bao gồm các yếu tố: nhiệt độ ngày, đêm; chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và nhiệt độ đất. Nhiệt độ ảnh hưởng đến quang hợp, hô hấp, sự tạo thành Prôtêin, axit amin và cuối cùng là ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất.
Nhiệt độ ngày: nhiệt độ tốt nhất tuỳ theo giống, nói chung từ 23 – 25 ºC, cũng có một số giống nhiệt độ tốt nhất là 21 – 23º C.
Nhiệt độ cao quá ảnh hưởng đến sự kéo dài của cành, khi nhiệt độ trung bình ngày vượt quá 24º C. Cành thường ngắn hơn 35 cm.
Nhiệt độ ngày cũng ảnh hưởng tới sản lượng. Nhiệt độ từ 26 – 27 ºC sản lượng cao hơn ở 29 – 32º C là 49%, hoa thương phẩm cao hơn 20,8%.
Nhiệt độ đêm: nhiệt độ đêm quan trọng hơn nhiệt độ ngày. Các giống Sonia, Samansa Vance khi nhiệt độ đêm cao, hoa nhiều, số ngày đến kỳ ra hoa giảm, độ dài cành ít chịu ảnh hưởng. Nhưng các giống Chuli, Malina khi nhiệt độ đêm cao thời gian phát dục rút ngắn, độ dài cành giảm, số lượng cành hoa ít. Đa số các giống thích hợp với nhiệt độ đêm là 16 ºC, vì nhiệt độ này có ảnh hưởng tốt đến số lượng và chất lượng hoa. Thấp hơn nhiệt độ tối thích cây sinh trưởng chậm, sản lượng thấp nhưng chất lượng hoa cao, cao hơn nhiệt độ tối thích thú sinh trưởng nhanh, sản lượng cao nhưng chất lượng hoa kém. Chính vì vậy ở các cùng núi cao: Sapa, Tam Đảo, Đà Lạt, có nhiệt độ ban đêm thấp 16- 18º C nên hoa rất đẹp và có giá trị.
Nhiệt độ đất: làm tăng nhiệt độ đất thì sức sống của rễ cao, tăng năng suất và chất lượng hoa. Nhiệt độ đất trên 21º C thì dù nhiệt độ không khí chỉ 5 – 8º C vẫn có hoa chất lượng cao.
Chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm: ngày trời quang nhiệt độ ban ngày cao hơn ban đêm 5 – 8º C có lợi cho sự tạo thành và sự dự trữ dinh dưỡng. Khi nhiệt độ tới 30º C thì quang hợp ngừng. Những ngày nhiều mây ánh sáng yếu, nhiệt độ thấp, quang hợp giảm nhưng hô hấp thì thực hiện cả ngày và đêm và khi nhiệt độ tăng hô hấp cũng tăng vì vậy trồng hoa Hồng phải chú ý đến điều tiết nhiệt độ nếu không chất lượng hoa sẽ giảm.
Tangeras (1979) nghiên cứu cho kết quả: nhiệt độ ban ngày thấp, ban đêm cao sẽ khống chế được độ dài cành đó là điều rất bất lợi cho hoa Hồng, vì độ dài cành là một trong những tiêu chuẩn quan trọng đến chất lượng hoa. Vì vậy phải có sự chênh lệch nhất định, ngoài ra độ dài của chu kỳ ánh sáng ảnh hưởng đến hiệu quả hiệu ứng của sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm (DIF). Headrik và Scharpy (1987) phát hiện thấy khi nhiệt độ ngày thấp hơn đêm sẽ làm cho cành hồng ngắn lại. Mortensen và Moe (1991) cũng chứng minh được điều này đồng thời còn cho biết nhiệt độ ngày cao hơn đêm sẽ rút ngắn được thời gian phát dục của hoa 2 ngày nhưng không làm cho cành dài ra.
Khi tăng nhiệt độ có thể làm tăng sự sinh trưởng và sản lượng. Moe (1988) dùng giống Red garanette làm thí nghiệm khi nhiệt độ tăng từ 12 – 18º C thì tốc độ sinh trưởng và số ngày ra hoa tăng lên 50% , sản lượng tăng so với ban đầu 2,5 – 3 lần.
Độ ẩm Cây hồng yêu cầu độ ẩm đất 60-70 %, độ ẩm không khí 80- 85% do hồng có tán rộng, bộ lá nhiều nên diện tích phát tán hơi nước của cây rất lớn. Sự điều tiết độ ẩm phụ thuộc vào thời tiết và thời gian chiếu sáng, kết quả thí nghiệm cho biết khống chế độ ẩm trong nhà kính không ảnh hưởng gì tới sản lượng về mùa Đông nhưng mua Hè thì tăng được sản lượng. Sự khác biệt này do ảnh hưởng đến môi trường sống của cây. Khi thiếu nước sự thoát hơi nước phụ thuộc vào độ ẩm không khí và diện tích lá. Nước không trực tiếp tham gia vào phản ứng sinh hoá mà chỉ là 1 điều kiện của phản ứng quang hợp, tác dụng tới sự cân bằng năng lượng trong cây. Nếu khống chế độ ẩm thích hợp thì độ dài cành tăng thêm trung bình là 8,2%.
Ánh sáng Hồng là cây ưa sáng, ánh sáng đầy đủ giúp cây sinh trưởng tốt. Nếu thiếu ánh sáng cây sẽ bị tiêu hao chất dự trữ trong cây. Khi cây còn nhỏ yêu cầu độ về cường độ ánh sáng thấp hơn, khi cây lớn yêu cầu ánh sáng càng nhiều hơn. Ánh sáng là nhân tố quan trọng nhất đối với sự sinh trưởng và ra hoa của hoa hồng. Ánh sáng chẳng những có tác động trực tiếp với cây mà còn làm thay đổi một loạt các nhân tố ngoại cảnh khác như làm tăng nhiệt độ, tăng sự tiêu hao nước. Do thời tiết thay đổi hoặc do sự che bớt ánh sáng dãn đến giảm cường độ và thời gian chiếu sáng đều làm giảm lượng chất khô tích luỹ và khả năng sinh trưởng. Sự phân hoá hoa, sự phát dục của hoa, thời gian giãn cách giữa 2 lần cắt hoa, độ lớn của cành hoa, trọng lượng và chiều dài cành, diện tích lá, màu sắc của cành hoa đều chịu ảnh hưởng của ánh sáng. Cường độ chiếu sáng ảnh hưởng tới rất rõ đến sản lượng hoa hồng. Có rất nhiều tài liệu nói tới sự phát dục hoa với cường độ chiếu sáng. Che bớt ánh sáng sẽ làm tăng sự bại dục của mầm hoa. Trước khi hoa phát dục (sau khi ngắt bỏ đỉnh sinh trưởng từ 10 – 20 ngày), sự phát dục của hoa có tương quan rất chặt đến cường độ chiếu sáng, nhưng cũng có khi liên quan tới thời gian chiếu sáng. Trong nhà kính ở các vị trí khác nhau, các hướng khác nhau, số lượng hoa cũng khác nhau, phần giáp rãnh và đường đi lượng hoa nhiều hơn ở giữa, hướng phía Nam nhiều hơn hướng phía Bắc. Các tài liệu nghiên cứu cho thấy ở Bắc bán cầu trong cùng một nhà kính số lượng hoa sẽ giảm dần theo trình tự sau Nam > Đông > Tây > Bắc > ở giữa. Ngoài ra cường độ chiếu sáng còn ảnh hưởng tới sự phát sinh cành. Những hàng cây càng gần hướng Nam so với hàng gần hướng Bắc, số cành càng nhiều hơn. Dùng cách che ánh sáng ở phần phát sinh cành hoàn toàn có thể ức chế sự ra cành, dùng cách chiếu sáng bổ sung sẽ làm tăng số lượng cành. Chu kỳ chiếu sáng không ảnh hưởng đến sự phân hoá hoa, nhưng thời gian chiếu sáng dài sẽ kích thích sự sinh trưởng và ra hoa, giảm bớt cành mù và hoa dị hình, rút ngắn thời gian trong một chu kỳ ra hoa. Chu kỳ chiếu sáng và độ dài bước sóng ánh sáng có quan hệ tới sự phát dục của hoa và vị trí của mầm hoa ở 21º C dùng đèn huỳnh quang chiếu sáng mỗi ngày 8h thì tất cả mầm trên cành ngắn đều phát dục thành mầm hoa, trên cành dài cũng ngẫu nhiên có mầm hoa; ở 15 ºC bất ke cành ngắn hay cành dài đều phát dục thành mầm hoa dưới ánh sáng trắng, sự phát dục của mầm hoa có thể thực hiện trong bất cứ nhiệt độ nào. Cường độ quang hợp có quan hệ rất chặt chẽ với ánh sáng, 90% chất khô trong cây là do quang hợp. Quang hợp chịu ảnh hưởng của giống, trạng thái nước, cường độ ánh sáng, nhiệt độ, nồng độ CO . Tất cả các giống hoa hồng đều có yêu cầu lượng bức xạ là 1000 Mmol m² S PAR. Ở nhiệt độ 22º C và điều kiện kéo dài bức xạ, mức quang hợp thuần của hoa Hồng khi nồng độ CO là 800 mg/g. Đọc thêm Yêu cầu nhiệt độ của các loài hoa JIAO (1990) nghiên cứu với hoa Hồng cho thấy mức CO trao đổi (NCER) (Net CO exchange rate) có phản ứng khác nhau với nhiệt độ.
Các giống Red Rosemini orage Suubdase và lady Sunblase là các giống mẫn cảm với nhiệt độ trong quang hợp thuần. Trong điều kiện bão hoà PAR và nồng độ CO2 nhiệt độ thích hợp là 15 – 20º C, khi nhiệt độ cao hơn 25 ºC thì quang hợp giảm nhanh. Các giống mẫn cảm với nhiệt độ thì khi nhiệt độ tăng cao quang hợp thuần giảm, chủ yếu do cường độ hô hấp tăng. Theo JIAO (1988), trong điều kiện ánh sáng mạnh mùa Hè hoa hồng có phản ứng khá mạnh khi bức xạ ánh sáng bão hoà hiệu suất quang hợp thuần cao. Nhưng vào mùa đông khi cường độ ánh sáng yếu 50-100 Mmol m² S¹ PAR, hiệu suất quang hợp thuần tương đối thấp. Đó là do kết cấu của bộ máy quang hợp giúp cho nó có tính thích ứng mạnh với ánh sáng.
Dinh dưỡng Đạm Đạm là nguyên tố quan trọng nhất của cây, nó là thành phần của axít amin, protein, axitnuclêic, men, chất kích thích sinh trưởng, vitamin (chiếm khoảng 1-2% trọng lượng chất khô). Cây có thể hút đạm dưới các dạng NO , NO , NH , NH … chủ yếu là NO, đạm nitrat có thể tan hết trong dung dịch đất, đạm amon phần lớn bị keo đất hấp thụ, đạm có thể di động tự do trong cây, thiếu đạm cây có biểu hiện lá già trước.
Đạm ảnh hưởng lớn nhất tới sản lượng và chất lượng hoa hồng, thiếu đạm cây sinh trưởng chậm, phân cành yếu, cành, lá nhỏ, diệp lục tố ít, lá biến vàng, lá già và dễ bị rụng, rễ nhỏ dài và ít, cây thấp khả năng quang hợp giảm. Kết quả nghiên cứu cho thấy thiếu đạm trong 9 ngày quang hợp thuần giảm 25%.
Quá nhiều đạm cây mọc vống, ra hoa chậm, lá to và mỏng, cây yếu, tính chống chịu kém, dễ nhiễm bệnh, bón đạm nhiều hay ít tuỳ giống. Nói chung mỗi 100g đất khô từ 15 – 25mg, cây mới trồng thì bón ít. Các dạng đạm thường dùng: + Nitrat amon: hiệu quả rất tốt, hàm lượng N nhiều có cả NO và NH , pH và EC biến đổi ít, nhưng sử dụng không an toàn vì dễ nổ; + Sulphat muốn: hiệu quả thấp, có gốc SO4(2-) tồn dư trong đất làm cho đất chua, EC tăng. + Urê: hiệu quả tốt nhất, trong đất urê biến đổi dần thành NO (sự phân giải có liên quan đến nhiệt độ).
Nhiệt độ thấp dễ hại cây, nhiệt độ cao phân giải nhanh, ít ảnh hưởng đến trị số pH và EC trong đất. Lân Lân thường chiếm từ 1- 1,4% trọng lượng chất khô của cây. Cây hút lân dưới dạng H2PO4(-) và HPO4(2-) , lân có thể di chuyển trong cây, chủ yếu tập trung ở phần non. Khi thiếu lân thì phần già biểu hiện trước. Thiếu lân dân tới lích luỹ đạm dạng Nitrat gây trở ngại cho việc tổng hợp prôtêin. Cành, lá, rễ sinh trưởng chậm, cây thấp bé, lá có màu tím hoặc tím đỏ ảnh hưởng đến tổng hợp Hydratcarbon, hoa nở khó. Nhiều lân quá ức chế sinh trưởng dân tới thừa sắt. Lân cũng ảnh hưởng lớn đến phẩm chất cây, hoa hồng cần lượng lân thích hợp là trong lòng đất khô có từ 20 – 50 mg P2O5 . Nhiều lân quá ảnh hưởng tới sinh trưởng, dẫn đến thiếu màu xanh, lá biến vàng có thể là ảnh hưởng tới sự hút sát. Nên tránh bón trên 100 mg P2O5 cho 100 g chất khô.
Hiệu quả của lân liên quan chặt với đất, super lân và lân nung chảy hiệu quả không khác biệt. Đối với đất pha cát hấp phụ kém, bón super lân hiệu quả cao hơn. Đất hấp phụ mạnh dùng lân nung chảy hiệu quả tốt hơn. Thường dùng bón cho hoa hồng là NH H PO và (NH ) HPO , khi bón qua lá thường dừng lân dạng KH2PO4 . Kali Kali là nguyên tố cây hoa hồng hút nhiều nhất, gấp 1,8 lần đạm, nhưng kali là nguyên tố có thể sử dụng lại khi ít ảnh hưởng tới sinh dục phát triển của cây so với đạm và lân.Tuy nhiên thiếu kali sinh hưởng kém, nếu thiếu quá nhiều sẽ ảnh hưởng tới việc hút canxi và magiê từ đó ảnh hưởng đến độ cứng của thân cành và chất lượng hoa. Hoa hồng yêu cầu lượng kali trao đổi trong đất như sau 100 g đất cần khoảng 20 – 30 mg. Bón nitrat kali hoặc sulphát kali đều tốt, không nên dùng Chlorua kali. Ngoài ra cây hồng còn cần một lượng phân vi lượng cho cây sinh trưởng phát triển tốt Ca, Mg, Fe, Zn, Mg…
Ánh sáng Hồng là cây ưa sáng, ánh sáng đầy đủ giúp cây sinh trưởng tốt. Nếu thiếu ánh sáng cây sẽ bị tiêu hao chất dự trữ trong cây. Khi cây còn nhỏ yêu cầu độ về cường độ ánh sáng thấp hơn, khi cây lớn yêu cầu ánh sáng càng nhiều hơn. Ánh sáng là nhân tố quan trọng nhất đối với sự sinh trưởng và ra hoa của hoa hồng. Ánh sáng chẳng những có tác động trực tiếp với cây mà còn làm thay đổi một loạt các nhân tố ngoại cảnh khác như làm tăng nhiệt độ, tăng sự tiêu hao nước. Do thời tiết thay đổi hoặc do sự che bớt ánh sáng dãn đến giảm cường độ và thời gian chiếu sáng đều làm giảm lượng chất khô tích luỹ và khả năng sinh trưởng. Sự phân hoá hoa, sự phát dục của hoa, thời gian giãn cách giữa 2 lần cắt hoa, độ lớn của cành hoa, trọng lượng và chiều dài cành, diện tích lá, màu sắc của cành hoa đều chịu ảnh hưởng của ánh sáng. Cường độ chiếu sáng ảnh hưởng tới rất rõ đến sản lượng hoa hồng. Có rất nhiều tài liệu nói tới sự phát dục hoa với cường độ chiếu sáng. Che bớt ánh sáng sẽ làm tăng sự bại dục của mầm hoa. Trước khi hoa phát dục (sau khi ngắt bỏ đỉnh sinh trưởng từ 10 – 20 ngày), sự phát dục của hoa có tương quan rất chặt đến cường độ chiếu sáng, nhưng cũng có khi liên quan tới thời gian chiếu sáng. Trong nhà kính ở các vị trí khác nhau, các hướng khác nhau, số lượng hoa cũng khác nhau, phần giáp rãnh và đường đi lượng hoa nhiều hơn ở giữa, hướng phía Nam nhiều hơn hướng phía Bắc. Các tài liệu nghiên cứu cho thấy ở Bắc bán cầu trong cùng một nhà kính số lượng hoa sẽ giảm dần theo trình tự sau Nam > Đông > Tây > Bắc > ở giữa. Ngoài ra cường độ chiếu sáng còn ảnh hưởng tới sự phát sinh cành. Những hàng cây càng gần hướng Nam so với hàng gần hướng Bắc, số cành càng nhiều hơn. Dùng cách che ánh sáng ở phần phát sinh cành hoàn toàn có thể ức chế sự ra cành, dùng cách chiếu sáng bổ sung sẽ làm tăng số lượng cành. Chu kỳ chiếu sáng không ảnh hưởng đến sự phân hoá hoa, nhưng thời gian chiếu sáng dài sẽ kích thích sự sinh trưởng và ra hoa, giảm bớt cành mù và hoa dị hình, rút ngắn thời gian trong một chu kỳ ra hoa. Chu kỳ chiếu sáng và độ dài bước sóng ánh sáng có quan hệ tới sự phát dục của hoa và vị trí của mầm hoa ở 21º C dùng đèn huỳnh quang chiếu sáng mỗi ngày 8h thì tất cả mầm trên cành ngắn đều phát dục thành mầm hoa, trên cành dài cũng ngẫu nhiên có mầm hoa; ở 15 ºC bất ke cành ngắn hay cành dài đều phát dục thành mầm hoa dưới ánh sáng trắng, sự phát dục của mầm hoa có thể thực hiện trong bất cứ nhiệt độ nào. Cường độ quang hợp có quan hệ rất chặt chẽ với ánh sáng, 90% chất khô trong cây là do quang hợp. Quang hợp chịu ảnh hưởng của giống, trạng thái nước, cường độ ánh sáng, nhiệt độ, nồng độ CO . Tất cả các giống hoa hồng đều có yêu cầu lượng bức xạ là 1000 Mmol m² S PAR. Ở nhiệt độ 22º C và điều kiện kéo dài bức xạ, mức quang hợp thuần của hoa Hồng khi nồng độ CO là 800 mg/g. Đọc thêm Yêu cầu nhiệt độ của các loài hoa JIAO (1990) nghiên cứu với hoa Hồng cho thấy mức CO trao đổi (NCER) (Net CO exchange rate) có phản ứng khác nhau với nhiệt độ.
Các giống Red Rosemini orage Suubdase và lady Sunblase là các giống mẫn cảm với nhiệt độ trong quang hợp thuần. Trong điều kiện bão hoà PAR và nồng độ CO2 nhiệt độ thích hợp là 15 – 20º C, khi nhiệt độ cao hơn 25 ºC thì quang hợp giảm nhanh. Các giống mẫn cảm với nhiệt độ thì khi nhiệt độ tăng cao quang hợp thuần giảm, chủ yếu do cường độ hô hấp tăng. Theo JIAO (1988), trong điều kiện ánh sáng mạnh mùa Hè hoa hồng có phản ứng khá mạnh khi bức xạ ánh sáng bão hoà hiệu suất quang hợp thuần cao. Nhưng vào mùa đông khi cường độ ánh sáng yếu 50-100 Mmol m² S¹ PAR, hiệu suất quang hợp thuần tương đối thấp. Đó là do kết cấu của bộ máy quang hợp giúp cho nó có tính thích ứng mạnh với ánh sáng.
Dinh dưỡng Đạm Đạm là nguyên tố quan trọng nhất của cây, nó là thành phần của axít amin, protein, axitnuclêic, men, chất kích thích sinh trưởng, vitamin (chiếm khoảng 1-2% trọng lượng chất khô). Cây có thể hút đạm dưới các dạng NO , NO , NH , NH … chủ yếu là NO, đạm nitrat có thể tan hết trong dung dịch đất, đạm amon phần lớn bị keo đất hấp thụ, đạm có thể di động tự do trong cây, thiếu đạm cây có biểu hiện lá già trước.
Đạm ảnh hưởng lớn nhất tới sản lượng và chất lượng hoa hồng, thiếu đạm cây sinh trưởng chậm, phân cành yếu, cành, lá nhỏ, diệp lục tố ít, lá biến vàng, lá già và dễ bị rụng, rễ nhỏ dài và ít, cây thấp khả năng quang hợp giảm. Kết quả nghiên cứu cho thấy thiếu đạm trong 9 ngày quang hợp thuần giảm 25%.
Quá nhiều đạm cây mọc vống, ra hoa chậm, lá to và mỏng, cây yếu, tính chống chịu kém, dễ nhiễm bệnh, bón đạm nhiều hay ít tuỳ giống. Nói chung mỗi 100g đất khô từ 15 – 25mg, cây mới trồng thì bón ít. Các dạng đạm thường dùng: + Nitrat amon: hiệu quả rất tốt, hàm lượng N nhiều có cả NO và NH , pH và EC biến đổi ít, nhưng sử dụng không an toàn vì dễ nổ; + Sulphat muốn: hiệu quả thấp, có gốc SO4(2-) tồn dư trong đất làm cho đất chua, EC tăng. + Urê: hiệu quả tốt nhất, trong đất urê biến đổi dần thành NO (sự phân giải có liên quan đến nhiệt độ).
Nhiệt độ thấp dễ hại cây, nhiệt độ cao phân giải nhanh, ít ảnh hưởng đến trị số pH và EC trong đất. Lân Lân thường chiếm từ 1- 1,4% trọng lượng chất khô của cây. Cây hút lân dưới dạng H2PO4(-) và HPO4(2-) , lân có thể di chuyển trong cây, chủ yếu tập trung ở phần non. Khi thiếu lân thì phần già biểu hiện trước. Thiếu lân dân tới lích luỹ đạm dạng Nitrat gây trở ngại cho việc tổng hợp prôtêin. Cành, lá, rễ sinh trưởng chậm, cây thấp bé, lá có màu tím hoặc tím đỏ ảnh hưởng đến tổng hợp Hydratcarbon, hoa nở khó. Nhiều lân quá ức chế sinh trưởng dân tới thừa sắt. Lân cũng ảnh hưởng lớn đến phẩm chất cây, hoa hồng cần lượng lân thích hợp là trong lòng đất khô có từ 20 – 50 mg P2O5 . Nhiều lân quá ảnh hưởng tới sinh trưởng, dẫn đến thiếu màu xanh, lá biến vàng có thể là ảnh hưởng tới sự hút sát. Nên tránh bón trên 100 mg P2O5 cho 100 g chất khô.
Hiệu quả của lân liên quan chặt với đất, super lân và lân nung chảy hiệu quả không khác biệt. Đối với đất pha cát hấp phụ kém, bón super lân hiệu quả cao hơn. Đất hấp phụ mạnh dùng lân nung chảy hiệu quả tốt hơn. Thường dùng bón cho hoa hồng là NH H PO và (NH ) HPO , khi bón qua lá thường dừng lân dạng KH2PO4 . Kali Kali là nguyên tố cây hoa hồng hút nhiều nhất, gấp 1,8 lần đạm, nhưng kali là nguyên tố có thể sử dụng lại khi ít ảnh hưởng tới sinh dục phát triển của cây so với đạm và lân.Tuy nhiên thiếu kali sinh hưởng kém, nếu thiếu quá nhiều sẽ ảnh hưởng tới việc hút canxi và magiê từ đó ảnh hưởng đến độ cứng của thân cành và chất lượng hoa. Hoa hồng yêu cầu lượng kali trao đổi trong đất như sau 100 g đất cần khoảng 20 – 30 mg. Bón nitrat kali hoặc sulphát kali đều tốt, không nên dùng Chlorua kali. Ngoài ra cây hồng còn cần một lượng phân vi lượng cho cây sinh trưởng phát triển tốt Ca, Mg, Fe, Zn, Mg…
Đọc thêm tại: http://caytrongvatnuoi.com/cay-trong/cac-yeu-cau-ngoai-canh-khi-trong-hoa-hong/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét